Phúc lợi xã hội là gì là một trong những từ khóa được gg search nhiều nhất về chủ đề phúc lợi xã hội là gì. Trong bài viết này, giaiphapvieclam.vn sẽ viết bài viết phúc lợi xã hội là gì? Tại sao có phúc lợi xã hội?

Phúc Lợi Xã Hội Là Gì

Phúc lợi xã hội là gì? Tại sao có phúc lợi xã hội?

1. Phúc lợi xã hội phần trăm thuận với thu thuế cao

Trong các nước thành viên của tổ chức cộng tác và tăng trưởng Kinh tế quốc tế (OECD), Mỹ là nước có phúc lợi chính phủ thấp, thấp hơn mức trung bình. Một báo cáo của tổ chức Heritage Foundation năm 2014 của Mỹ chỉ ra rằng, năm 2013 có 100 triệu người Mỹ (chiếm 1/3 tổng dân số) nhận các loại phúc lợi (không bao gồm bảo hiểm an toàn xã hội và bảo hiểm y tế liên bang), bình quân mỗi người nhận mức trợ cấp tương đương 9.000 USD. Theo số liệu công bố của Cục đo đạt Mỹ, năm 2016 số người nghèo chiếm 12,7%. không những thếcuộc đời sinh hoạt của những người nghèo ở Mỹ hẳn sẽ làm k ít người phải giật mình. Căn cứ điều tra của Chính phủ, 96% bố mẹ trong những gia đình nghèo nói rằng con cái của họ k bị đói, 49,5% gia đình sinh sống ở những căn nhà một phòng ngủ, 40% số những gia đình khác sinh sống trong những căn nhà hai phòng ngủ, chỉ có 9% gia đình sống trong những căn nhà di động; 80% gia đình có điều hòa; 40% gia đình có tivi tinh thể lỏng; 3/4 gia đình có oto.

Phúc lợi xã hộ, thuế cao, welfare

phần lớn người dân ở các nước Bắc Âu và Tây Âu hưởng thụ phúc lợi từ chính phủ còn cao hơn rất nhiều ở Mỹ. ví dụhệ thống an sinh “từ khi sinh đến khi chết” ở Đan Mạch, bao gồm cả giáo dục free và chăm sóc y tế miễn phí cũng như rất nhiều các khoản phúc lợi không giống, ngay cả những công dân màu mỡ nhất cũng được hưởng. Trước khi kinh tế Hy Lạp xuất hiện khủng hoảng thì người Hy Lạp cũng được hưởng phúc lợi cao, một năm được lĩnh 14 tháng lương, 61 tuổi đủ nội lực nghỉ hưu, lương nghỉ hưu bằng hơn 90% lương khi còn công tác; người Thụy Điển đủ nội lực nghỉ ốm 550 ngày thường xuyên v.v..

Tại Pháp, ngoài hệ thống bảo hiểm y tế hầu như bao cấp hoàn toàn, các nền móng phúc lợi cho người có thu nhập thấp, gia đình đông con, sinh viên, người thất nghiệp cũng rất hào phóng. Chẳng hạn, một người không có doanh thu sẽ được trợ cấp RSA để có mức doanh thu tối thiểu là 550,93 Euro/tháng. Nếu người này có con nhỏ phụ thuộcsố tài nguyên trợ cấp sẽ tăng lên, khoảng 220 Euro/tháng cho một trẻ.

Phúc lợi cao của các quốc gia phát triển ở phương Tây cần phải chi tiêu một lượng to nguồn tiền thu được. Nếu như không có thu thuế cao cũng như không có sự dịch chuyển một lượng lớn tài sản tư nhân đến các ngành công cộng thông qua nộp thuế hoặc là việc vay nợ của quốc gia, thì các chính sách phúc lợi cao sẽ không thể thực hiện được.

Ở Mỹ, quá nửa số thuế thu được là dành cho phúc lợi xã hội và y tế, nhưng số thuế này đến từ đâu, hơn 80% là đến từ thuế doanh thu cá nhân và thuế an toàn xã hội, còn 11% là đến từ thuế doanh thu doanh nghiệp. Chế độ phúc lợi không gian ở rất nhiều các đất nước phương Tây còn hơn thế nữa, theo đó yêu cầu về thu thuế càng cao hơn.

Phúc lợi xã hộ, thuế cao, welfare

Căn cứ số liệu năm 2016 của OECD, thống kê trong 35 quốc gia có nền kinh tế thị trường thì có 27 quốc gia có thuế suất thu nhập lao động lớn hơn 30% và cao nhất là 54%, ở vị trí thứ hai là 49,4%, đa phần đều ở các quốc gia châu Âu. cùng lúc, khi ăn uống và mua sắm ở châu Âu còn phải chịu thuế trực thu (Direct tax), phần này do những người tiêu dùng chịu, có những quốc gia thuế trực thu cao đến khoảng 20%. Nếu gia tăng thuế thu nhập doanh nghiệp và các loại thuế lặt vặt khác, thì tổng thuế suất sẽ còn cao hơn nữa.

Một nghiên cứu khác chỉ ra rằng, khoảng những năm 1900, những người nộp thuế ở nhóm 20 quốc gia có kinh tế phát triển đều nộp thuế rất thấp. ví dụ như thuế suất cao nhất ở Ý những năm 1900 là 10%, Nhật Bản và New Zealand là 5%. không những thế đến năm 1950, thuế suất cao nhất bình quân ở 20 đất nước này đang vượt quá 60%, sau đó dần hạ xuống đến mức khoảng 40% hiện giờ.

Thu thuế cao k chỉ là nhắm đến người giàu, những người nghèo cũng bị ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp. Người giàu còn đủ sức thông qua rất nhiều các biện pháp mua bán và các loại bí quyết chuẩn để tránh thuế, nhưng người nghèo khi doanh thu tăng trưởng thì có cấp độ đối diện với việc mất đi một số loại phúc lợi thế giới, ở một phạm vi thu nhập nhất định thì thậm chí còn xuất hiện chủ đề là càng lao động nhiều thì nộp thuế càng nhiều, phúc lợi nhận được càng ít.

Về bản chất, thu thuế cao ở các quốc gia phương Tây là tư liệu sản xuất do cá nhân chiếm hữu nhưng tài sản sử dụng ra được sẽ bị nhà nước chiếm hữu thông qua hình thức thu thuế cao, được cung cấp lại trở thành tài sản công cộng. Thu thuế cao cũng chính là cưỡng chế một lượng lớn lớn tài sản tư nhân đưa vào tay của nhà nước để nhà nước thống nhất tiến hành phân phối lại tài sản vào hoạt động kinh tế, đằng sau nó còn tiềm ẩn việc tiến gần đến phế bỏ tài sản tư hữu.

Phúc lợi xã hộ, thuế cao, welfare

2. Phúc lợi không gian và thu thuế cao ở phương Tây có thực sự ưu việt?

(1) Phúc lợi cao gây suy thoái đạo đức và gia tăng mâu thuẫn giữa người giàu và người nghèo

Từ góc độ kinh tế, bản chất của phúc lợi đất nước là một số người cung cấp tiền để một số mọi người chi tiêu. Chính phủ sẽ nhận vai trò trung gian là người cung cấp lại tài sản, khiến cho áp lực đạo đức của hành vi “không làm mà hưởng” của những người hưởng thụ phúc lợi giảm đi rất nhiều. Ở phương diện này, sự băng hoại quan niệm đạo đức tại Bắc Âu trong chế độ phúc lợi cao là cực kỳ rạch ròi.

Nima Sanandaji, học giả người Thụy Điển đã sử dụng số liệu của “cuộc điều tra trị giá quan thế giới” để sử dụng rõ vấn đề này. Vào đầu những năm 80 của thế kỷ trước có 82% người Thụy Điển và 80% người Na Uy chấp thuận rằng “việc nhận phúc lợi của chính phủ mà bản thân không nên nhận là k đúng”; nhưng cuộc điều tra tiến hành năm 2005 và năm 2008 chỉ ra rằng, chỉ có 56% người Na Uy và 61% người Thụy Điển tin rằng “nhận phúc lợi của chính phủ mà bản thân không nên nhận là không đúng”.

Phúc lợi xã hộ, thuế cao, welfare

Dưới chính sách phúc lợi không gian, những điều con người nhận được khi cố gắng sử dụng việc là rất ít, chính sách phúc lợi khuyên rằng một số người sinh sống dựa vào phúc lợi của chính phủ. Theo sự thay đổi của thời gian, ý kiến đạo đức của con người sẽ có sự phát sinh biến dị một hướng dẫn vô thức. Những người trưởng thành trong chế độ phúc lợi, có rất nhiều người sẽ dần dần mất đi tinh thần cần cù, chịu trách nhiệm, độc lập, chăm chỉ vươn lên, khiến cho việc “thụ hưởng phúc lợi” trở thành một loại quyền lợi, thậm chí thành một loại “nhân quyền”, dưỡng thành tập quán lệ thuộc vào chính phủ, thậm chí uy hiếp ngược lại chính phủ.

Đặc biệt, tại Mỹ hay châu Âu, số lượng dân nhập cư ngày càng nhiều và đó chính là lực lượng ỷ lại vào nền tảng phúc lợi xã hội, thậm chí có một số cộng đồng không chịu hòa nhập và đóng góp cho cộng đồng kênh mình cư trú.

k chỉ là vậy, chế độ phúc lợi cao còn tước đoạt đi lợi ích sử dụng việc thiện của những người cho đi trong từ thiện truyền thống, cũng tước đoạt thời cơ cám ơn của những người nhận ơn. cách thức hướng dẫn người nghèo trong xã hội truyền thống là hành động tự chủ: hoặc là cá nhân xuất tâm cảm thương trực tiếp cứu trợ những người cần cứu trợ, hoặc là cá nhân quyên tặng cho những tổ chức từ thiện (như giáo hội) sau đó thông qua các đơn vị từ thiện để cứu trợ những người nghèo khó.

Phúc lợi xã hộ, thuế cao, welfare

Phúc lợi xã hộ, thuế cao, welfare

Tocqueville, nhà tư tưởng người Pháp Nhìn thấy, mỹ đức cho đi và cảm ơn trong không gian là tương hỗ bổ trợ cho nhau, mối gắn kết tình cảm hai chiều như vậy, đủ sức hóa giải mâu thuẫn và sự đối lập giữa hai giai tầng bần phú, do từ thiện cá nhân khiến cho các cá thể cụ thể trong hai giai tầng liên hệ với nhau thông qua tình cảm và lợi ích. Ông cũng chỉ ra, chế độ phúc lợi sử dụng tăng trưởng thêm mâu thuẫn giữa người giàu và người nghèo. Người giàu bị cưỡng chế trưng thu một bộ phận tài sản, khiến họ không hướng dẫn nào cảm thấy nhất trí khi Nhìn những người được cứu trợ. ngược lại, họ chỉ cảm thấy oán hận và khinh miệt với những người ở giai tầng nghèo khó, coi những người này như những “người xa lạ tham lam”. Cùng với đó, trong tâm người nghèo khó cũng sẽ sinh sự bất mãn, bởi vì sự cứu trợ về vật chất bị xem là việc đương nhiên hơn nữa cũng k thể khiến người ta no đủ.

Loại bất mãn này biểu hiện cực kỳ rạch ròi khi khủng hoảng kinh tế Hy Lạp bộc phát, nhưng đó k chỉ là khoảng mẹo giữa những người giàu nhất và những người nghèo nhất, mà là khoảng phương pháp giữa người người giàu và phần lớn những người ở tầng lớp trung lưu. Ở Hy Lạp, người ta k muốn đóng thuế cao, toàn dân trốn thuế nghiêm trọng.

Bài báo A National Sport No More trên báo chí The Economist tải ngày 3/11/2012 lý giải, quan chức Hy Lạp gọi trốn thuế là “phong trào toàn dân”. Một khi kinh tế xuất hiện vấn đề, người giàu trốn thuế mới là điều khó coi. Chính phủ Hy Lạp vì không mong muốn sử dụng mất lòng cử tri, trong thời gian dài thông qua việc phát hành trái phiếu để bù đắp cho thâm hụt ngân sách do việc thu thuế k đủ, để duy trì mức phúc lợi cao như các member khác của Liên minh châu Âu. Sau khi khủng hoảng bộc phát, khi chính phủ cần phải giảm thấp phúc lợi thì một làn sóng bất mãn quy mô to từ người dân vốn đang quen được nuông chiều bằng phúc lợi cao bùng phát, dân chúng hướng mũi nhọn đến những người giàu, yêu cầu thu thuế nhiều hơn từ những người giàu. Đến cùng là có phải tầng lớp giàu tài nguyên hay tầng lớp trung lưu chịu trách nhiệm cho cuộc khủng hoảng kinh tế này không? Đây là chủ đề nhức nhối của chính phủ.

Một gợi ý dễ thấy khác nữa chính là Phong trào áo vàng ở nước Pháp trong thời điểm cuối năm 2018 vừa qua. Đây là sự bùng phát khi các chính sách về thuế và phúc lợi không gian của Tổng thống Macron theo thiên hướng discount tầng lớp siêu giàu và thắt chặt phúc lợi của tầng lớp doanh thu thấp. Điều đáng nói là không chỉ ở Pháp, mối bất ổn âm ỉ cũng đang hiện hữu ở một số nước tăng trưởng không giống tại châu Âu và có thể bùng phát bất cứ lúc nào. nguyên do sâu xa là do chế độ phúc lợi ở các quốc gia này khiến cho thâm hụt chi phí gia tăng, và phải liên tục bù đắp bằng các gốc thuế.

rõ ràng, chế độ phúc lợi làm tăng trưởng cường quan niệm “không làm mà hưởng”, sử dụng giảm đi cố gắng làm việc và k khí tích cực chăm chỉ của thế giớingoài ra cũng sẽ tạo thành tổn thương cho nền kinh tế.

(2) Chế độ phúc lợi tạo nên “văn hóa bần cùng”

Năm 2012, bài báo có đầu bài “Để những đứa trẻ k biết chữ” trên tờ The New York Times vừa mới nêu lên một thực trạng: rất nhiều phụ huynh cho phép con cái của mình bỏ học chỉ bởi họ lo lắng một khi trẻ đi học sẽ biết đọc và k còn quá đủ điều kiện nhận trợ cấp mù chữ mỗi tháng. Một số gia đình nghèo này nhận được một khoản tiền 698 USD từ “Chương trình Trợ cấp Bảo trợ” mỗi tháng cho đến khi đứa trẻ được 18 tuổi. Điều này tạo ra việc phụ huynh thà từ bỏ dạy bảo trẻ em còn hơn là bị mất đi những khoản trợ cấp trước mắt.

Khoảng 40 năm trước, chương trình này trợ cấp cho những gia đình có trẻ em thực sự có khuyết tật về mặt trí tuệ hoặc về mặt sinh lý. tuy nhiên hơn 55% “trẻ em khuyết tật” nhận trợ cấp bây giờ k thể xác định rạch ròi có phải là “người chậm phát triển trí tuệ” hay không. Tại Mỹ hiện có khoảng 1,2 triệu trẻ em thuộc diện này và cần 9 tỷ USD tiền trợ cấp mỗi năm từ những người nộp thuế.

Phúc lợi xã hộ, thuế cao, welfare

Hàng trăm năm nước, Tocqueville đang dự kiến được rằng, chế độ phúc lợi sẽ không có cách nào phân biệt được tính chân thực của đối tượng nhận trợ cấp. Từ khía cạnh kinh tế mà nói, lạm dụng phúc lợi sẽ tạo thành gánh nặng tài chính, nhưng so với một số trẻ em nghèo mà nói, chế độ phúc lợi mang đến những bi kịch còn lớn hơn. nghiên cứu năm 2009 đã thể hiện rõ ràng rằng 2/3 số trẻ em nghèo khi đến 18 tuổi đều trở thành những người thành niên thụ nhận trợ cấp của chương trình tàn tật, nói mẹo khác suốt đời họ cũng không thể thoát khỏi nơi bần cùng.

Phúc lợi có thể có chức năng trợ giúp đối với những người gặp tai nạn do tại sao ngoài ý muốn (như tai nạn lao động, bệnh tật, tai nạn tự nhiên v.v..), nhưng nó không thể giải quyết vấn đề nghèo khó từ căn bản được. quét nước Mỹ sử dụng gợi ý, tính đến năm 2014, trong vòng 50 năm từ khi tổng thống Johnson khởi đầu “chiến tranh chống nghèo khó” đang tiêu tốn 2,2 ngàn tỷ USD từ người nộp thuế. Nhưng số liệu của Cục tổng hợp Mỹ chỉ ra rằng, ngoại trừ hơn chục năm trước hết% người nghèo khó ở Mỹ quá khứ gần 40 năm qua cơ bản thường xuyên ổn định: tỷ lệ nghèo khó không vì thông qua cứu trợ mà giảm xuống.

William Arthur Niskanen, nhà kinh tế học người Mỹ chỉ ra rằng, chế độ phúc lợi tạo thành “văn hóa bần cùng”, bao quát nghèo khó, tính phụ thuộc vào phúc lợi, thất nghiệp, phá thai v.v.. Một nghiên cứu kiểm nghiệm của Nicholas biểu thị rằng, trong Chương trình trợ giúp gia đình có trẻ em (AFDC), doanh thu của những người thụ nhận cứu trợ tăng thêm 1%, sẽ khuyến khích số người thụ nhận tăng trưởng 3%, số người nghèo khó tăng 0,8%, phần trăm phụ nữ sinh con không kết hôn gia tăng 2,1%, đáng nói là số lần phá thai cũng tăng trưởng tương ứng. Điều này chứng thực rằng tính kích like ngược của phúc lợi cao tạo thành sự phụ thuộc của con người vào phúc lợi, làm giảm ý thức trách nhiệm của con người. Phúc lợi trở thành trợ thủ sử dụng tỷ lệ sinh con k kết hôn tối ưu, tạo thành càng nhiều thêm nữa những người nghèo khó.

Mặc dù mức phúc lợi không ngừng tăng trưởng, 30 năm qua khoảng mẹo giàu nghèo ở Mỹ đã được nới rộng, tiền lương thu nhập bình quân (bỏ qua yếu tố lạm phát) phát triển chậm, tài sản chủ yếu chảy vào tầng lớp màu mỡ nhất, thậm chí xuất hiện “công việc của người nghèo”… Ba nhà kinh tế học Martin Halla, Mario Lackner và Friedrich G. Schneider sau khi tiến hành phân tích tính nguy hiểm của phúc lợi quốc gia vừa mới chỉ ra, số liệu đang chứng thực rằng phúc lợi đất nước xác thực là sẽ làm suy yếu động lực tích cực nỗ lực của không gian, nhưng hiệu ứng này chỉ đủ nội lực thực sự biểu hiện ra sau một thời gian rất dài hạn. Ba vị học giả kết luận rằng: Phúc lợi quốc gia phá hủy đi cơ sở kinh tế của chính bản thân đất nước đó.

Vậy thì, chính sách phúc lợi thế giới cùng với thu thuế cao có phải là lời giải cho bài toán ổn định không gianvững bền kinh tế và hạnh phúc cho người dân hay không?

Nguồn: https://trithucvn.net/